Thực đơn
Màu sắc động vật Màu lông thúThỏ cũng là giống có nhiều màu lông do chọn lọc (nhất là đối với các giống thỏ cưng). Lông thỏ gồm có lông ngắn nhọn phần đầu, chân trước và đùi, lông mao phần thân. Ngoài độ dài ngắn, nhỏ, bóng của lông, sự thay đổi hình thái lông còn liên quan đến sự thay đổi các loại lông trong sinh trưởng phát triển loài thỏ nhà. Sự hình thành màu lông thỏ là từ di truyền tính trạng màu lông thỏ. Tế bào hắc tố của lông tồn tại trong da, tính chất, số lượng, hình dạng hạt, cách thức phân bố khác nhau của sắc tố và tạc dụng men khác nhau, hình thành màu lông đa dạng của thỏ.
Lông thỏ có biểu hiện nhiều màu là do sự tồn tại của sắc tố màu, vật chất sắc tố này gọi là hắc tố, hắc tố có thể chia thành hai loại: sắc tố nâu và sắc tố đen, sắc tố đen lại chia thành màu đen và màu nâu. Loại sắc tố nào thì cũng đều được hình thành do tyrosine và axit benzene dưới tác dụng của hàng loạt enzyme. Trong quá trình oxy hóa, hệ thống enzyme này khá nhạy cảm với nhiệt độ, có loại enzyme phải để dưới nhiệt độ cao mới có hoạt tính. Thỏ trắng Himalaya toàn thân có màu trắng, nhưng tai, đầu mũi, đuôi và tứ chi, do nhiệt độ thấp hơn các bộ phận khác, nên đã kích hoạt enzyme, làm cho nó có màu đen. Ngoài ra, màu sắc những bộ phận này đậm hay nhạt cũng phụ thuộc và sự thay đổi của nhiệt độ. Mùa đông màu lông thỏ đậm hơn.
Hệ thống tác dụng điều khiển gen màu lông thỏ phức tạp. Lông thỏ rất đa dạng, thỏ hoang có màu lông giống chuột hoang, thỏ Angora thường gặp và thỏ tai to của Nhật (thỏ Harlequin Nhật) đều thuộc loài lông trắng, thỏ đốm lớn của Đức có biểu hiện lông đen đốm trắng sự đa dạng màu lông thỏ được quy định bởi rất nhiều gen trên nhiễm sắc thể thường, ít nhất có 8 hệ thống gen, trong đó có 4 hệ thông gen trọng tâm:
Các giống chó nhà có sự đa dạng về màu lông do sự chọn lọc đặc biệt của con người. Có thể đoán biết được tính cách của một con cún dựa trên màu lông của nó, ít nhất là với giống chó cốc lông mượt, tai cụp của Anh (English Cocker Spaniel) hay còn gọi là Spaniel Anh, những con lông đỏ vàng có hành vi hung hăng, dữ tợn nhất. Chó lông màu đen có mức độ hung bạo thứ hai trong khi con nhiều màu (lông trắng với các đốm màu) thì lành tính hơn. Màu lông cũng liên quan tới tính cách của giống chó biết nhặt vật về cho chủ (retriver), với giống này, con hung dữ nhất có lông màu vàng, tiếp đến là lông đen và hiền lành nhất là con lông màu chocolate[9].
Mối liên quan giữa màu lông và tính cách bắt nguồn từ sự hình thành mã gene xảy ra ở giai đoạn đầu đời của con vật, mối liên quan xuất phát từ thực tế rằng lớp ngoại bì (một trong 3 lớp tế bào phôi chủ đạo) là nơi da và hệ thần kinh trung ương khởi nguồn từ trong phôi. Trong rất nhiều trường hợp, những con chó lông vàng phản đối sự làm quen của con người và thậm chí còn tìm cách cắn lại, trong khi nhóm lông nhiều màu thì thường vẫy đuôi và thích thú khi được chú ý đến. Tuy rằng gene tạo nên màu lông và quyết định một phần tính cách ở chó nhưng chó được nuôi dạy như thế nào đóng vai trò lớn nhất trong hành vi của chúng[9].
Mèo có bộ lông gồm ba nhóm màu chính: vàng, đen, nâu, nếu tính luôn các sắc điệu của mỗi nhóm màu thì có thể liệt kê thành đỏ, đen, nâu, nâu sôcôla, kem, nâu vàng quế và tam thể. Sự sắp xếp và hình dáng các mảng màu thường là bất đối xứng. Kích thước các mảng màu cũng khác nhau tùy cá thể, từ những đốm màu nhỏ cho đến những mảng màu rất lớn. Thậm chí, có những cá thể mèo đồi mồi mang hệ thống các mảng màu hình vằn giống như mèo khoang hoặc có sự sắp xếp mảng màu như colorpoint. Thông thường, mèo có tổng diện tích mảng màu trắng càng lớn thì kích thước mỗi mảng màu cũng càng lớn và càng phân biệt rõ ràng. Một số gien trong bộ máy di truyền quy định về việc pha loãng các màu lông này và có thể khiến bộ lông mang các màu trung gian giữa ba nhóm chính như xanh, tím hoa cà, kem hay nâu vàng. Thông thường, trên bộ lông mèo có một đường phân cách chạy dài từ đỉnh đầu xuống mũi, chia đôi bộ mặt thành hai nửa: một nửa màu đen và một nửa màu nâu vàng.
Loài hổ nổi bật với bộ lông có xen lẫn sọc màu vằn vện để hòa lẫn với môi trường và tạo ra dáng vẻ uyển chuyển cho chúng, kể cả khi cạo sạch lông của chúng thì những vằn vện trên cơ thể vẫn còn trên da hổ. Mỗi con hổ có một kiểu sọc vằn riêng, giống như dấu vân tay ở người, những vết sọc giúp chúng ngụy trang tốt trong các đám cỏ và cây bụi thấp, còn những đốm trắng ở mặt sau của tai hổ là dấu hiệu chỉ dẫn để hổ con có thể bám theo mẹ[10]. Bộ lông chúng rất quý và giá trị (cọp chết để da) do đó chúng bị săn bắt để lấy da và các sản phẩm khác.
Màu của chúng có thể là bất kỳ màu nào trong khoảng từ vàng đến đỏ-da cam, với những khu vực màu trắng trên ngực, cổ, cũng như phần bên trong của chân. Một vài biến thể về màu sắc của hổ được ghi nhận như:
Các vằn của phần lớn các nòi hổ dao động trong khoảng nâu xám tới đen thuần, mặc dù hổ trắng có rất ít các vằn. Hình dạng và mật độ các vằn thay đổi theo từng nòi, nhưng phần lớn các nòi đều có trên 100 vằn. Hổ Java nay đã tuyệt chủng có thể có nhiều hơn. Các mẫu vằn là duy nhất cho từng cá thể, và vì thế có thể sử dụng để xác định từng cá thể giống như mẫu vân tay ở người. Tuy nhiên điều này không phải là phương pháp được ưa thích để xác định, vì sự khó khăn trong việc ghi chép các mẫu vằn của hổ hoang dã. Mục đích của các vằn có lẽ là để ngụy trang, giúp chúng coi là ẩn đối với các con mồi (có rất ít các loài thú có cảm giác màu như con người, vì thế màu sắc chưa hẳn đã là vấn đề quan trọng như người ta vẫn nghĩ).
Gấu trúc lớn (Ailuropoda melanoleuca) có lông màu đen và màu trắng đặc trưng giúp chúng ngụy trang trong môi trường sống và giao tiếp với nhau. Phần lông màu đen giúp chúng ẩn mình trong bóng râm. Màu lông gấu trúc cũng được sử dụng trong giao tiếp. Đôi tai màu đen của gấu trúc tạo ra cảm giác hung dữ, nhằm đe dọa những kẻ săn mồi. Các mảng màu đen quanh mắt có thể giúp chúng nhận ra nhau hoặc là tín hiệu gây hấn đối với đối thủ gấu trúc cạnh tranh.
Bằng việc so sánh những mảng lông màu đen và trắng của gấu trúc với 195 loài động vật ăn thịt khác và 39 phân loài gấu, liên hệ màu sắc lông với những biến đổi sinh thái trong môi trường và hành vi con vật để xác định chức năng của chúng, phần lông màu trắng ở trên mặt, cổ, bụng và mông của gấu trúc giúp chúng che giấu cơ thể trong môi trường sống đầy tuyết[11].
Thực đơn
Màu sắc động vật Màu lông thúLiên quan
Màu Màu sắc động vật Màu sắc Màu lông ngựa Màu áo sân khách Màu cơ bản Màu tím hoa sim Màu mắt Màu điều nhuộm Màu tócTài liệu tham khảo
WikiPedia: Màu sắc động vật http://www.zoology.ubc.ca/~otto/PopGen500/Discussi... http://animals.howstuffworks.com/animal-facts/anim... http://www.nytimes.com/2005/03/15/science/15blue.h... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/1422807 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/5700268 http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/10-con-vat-c... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/loai-con-tru... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/mau-long-cho... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nhung-con-tr... http://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nhung-dieu-t...